Năm 1807, nhà hóa học người Đức 24 tuổi Julis-Kraphorot tại hội nghị khoa học Petecbua nước Nga đã đọc một luận văn gây được sự chú ý của nhiều người, nhan đề là “vào thế kỷ thứ VIII, người Trung Quốc đã biết tri thức Hóa học”
Luận văn này nói về ai là người tìm ra oxi sớm nhất. Trước đó mọi người trên thế giới đều công nhận rằng: “Oxi là do một nhà hóa học người Anh là Pristley tìm ra vào năm 1774, khi đốt nóng HgO”. Đồng thời nhà hóa học Thụy Điển Shilơ cũng qua việc nghiên cứu MnO2 và phát hiện ra oxi năm 1772. Nhưng trong luận văn của mình Kraphorot đã đưa ra một luận cứ mới là hơn 1100 năm trước người Trung Quốc đã phát hiện ra oxi.

Bức họa vẽ Priestley của Ellen Sharples (1794)
Trong luận văn của mình Kraphorot có nói về việc vào năm 1802 trong khi ông cùng người bạn đồng hương là Polnan đã được xem một quyển sách 68 trang của một học sinh Trung Quốc tên là Mã Hòa viết: “… có nhiều phương pháp có thể phân ly các chất khí thành từng phần, có thể từ trong các chất khí thu được bộ phận âm…”. “… âm khí chính là phần khí không thuần khiết, là những khí thu được khi đốt nóng đá xanh, diêm tiêu, than đá”. Ở đây, khí là chỉ không khí , còn “âm” là chỉ oxi.
Luận văn này công bố vào năm 1810 trong “Tập san viện khoa học Petecbua”, gây sự tranh luận sôi nổi trong giới khoa học thế giới. Từ thế kỷ XIX trở về sau các nhà hóa học như nhà hóa học vô cơ Pháp Mustan, nhà hóa học Đức Lyphman trong các tác phẩm của mình đều có dẫn ra luận văn của Kraphorot, đồng thời đưa ra ý kiến cho rằng người Trung Quốc đã tìm ra oxi sớm nhất. Ở Trung Quốc, người đầu tiên đưa ra sự việc này là nhà hóa học Hoàng Tố Phong. Vào năm 1936, khi dịch quyển sách “lịch sử phát triển các nguyên tố hóa học” có nêu vấn đề sự phát hiện oxi của Mã Hoàng, tìm đến nguyên bản luận văn của Kraphorot dịch ra tiếng Trung Quốc. Nhờ đó vấn đề này đã gây được sự chú ý của giới hóa học Trung Quốc.